Chè xanh xứ Nghệ
"Lục biểu trà" của tôi là thứ nước uống bao đời đã thành nét văn hoá đậm chất tình làng nghĩa xóm. Có thể nói phải đến 70% người Nghệ nghiện món chè chát được chế biến từ cây chè xanh. Mọi người có thể uống khi no, uống khi đói, uống khi nước chè vàng sóng sánh, uống khi nước đỏ quạch mà vẫn thèm thuồng loại nước uống đẫm tình quê.
Nhớ quê, nhớ nước chè xanh
Quê tôi, rừng núi nhấp nhô, ruộng lúa ít hơn những đồi chè bạt ngàn. Đồi chè kéo từ Thanh Chương, Đô Lương, lên Anh Sơn, Con Cuông và giống chè shan tuyết trên miền băng giá Kỳ Sơn. Ở quê, nhà nào cũng có hàng chè để làm thức uống hàng ngày, dù là miền trung du hay miền đồng bằng. Chè xanh đất thịt, lá nhỏ dày và dòn chè hơn, nước nấu cũng đậm đà, vị chè thơm hơn. Còn chè vùng đồng bằng, lá to bản, mỏng dẹt hơn nhưng nước cũng nhạt hơn thứ chè trồng ở trung du, miền núi.
Nhớ cô em tôi, ngày còn xuôi ngược theo những chuyến tàu khách Bắc Nam đông đúc thuở hoàng kim đường sắt, về đến ga Vinh là phải làm bát nước chè dạo của những đứa trẻ bán nước cho hành khách ngược xuôi qua Vinh. Lúc nào em tôi cũng bảo cậu mự tôi gửi cho một ôm chè từ Thanh Chương để ra Hà Nội tự sướng món non xanh nước biếc vào những ngày nghỉ cho bõ thèm.
Nhớ sếp tôi khăn gói quả mướp vào Nam làm quan ấy vậy mà người nhà cứ gửi xe Bắc - Nam, tầm 4 - 5 h sáng lại lọ mọ tháng đôi lần đón xe lấy chè về cuộn chặt để dành mỗi ngày om một ấm, để trước sau giờ làm cùng đồng hương uống nỗi nhớ quê hương.
Nhớ ông anh xa quê ở bển, tính số năm bôn ba xứ người cũng xấp xỉ bằng tuổi có mặt trên cõi đời của tôi nhưng chưa khi nào quên vị chè xanh xứ Nghệ cũng như giọng nói sang sảng luôn cà khịa cả tây lẫn ta bằng thổ ngữ quen thuộc "tau đập theo tổ bây giừ".
Bát chè xanh sau nắm xôi sáng vừa chắc dạ lại vừa yên lòng tâm lý ăn chắc mặc bền của người lao động từ chân tay đến trí thức, no đến trưa, đến chiều lại không bị cồn cào cái bụng vì cái sắc sảo của nước chè xanh mang lại.
Chè ngon phải uống bằng bát
Chè ngon phải thưởng thức bằng bát, thứ bát Hải Dương men màu trắng sữa, miệng bát viền thứ hoa văn đỏ không nét, đựng loại nước chè màu vàng nhạt để sáng sớm râm ran lời mời qua nhà nhau uống nước. Bình dân thì củ sắn củ khoai với ấm nước chè nấu trực tiếp trên bếp củi hoặc om trong những ấm tích bé tẹo dành cho nhà ít người. Hôm nào có đại tiệc thì miếng cu đơ kèm với bát chè xanh câu chuyện còn rôm rả gấp mấy lần.
Bát nước chè xanh nhưng màu nước chín lại pha sắc vàng chanh, vàng như nắng Nghệ mùa hè gió phơn rạc cả người, vàng như cây rơm đầu ngõ óng ả bao nhiêu là dự định sau khi bỏ lúa vào sập, vàng như nỗi nhớ quê nghi ngút vị chè chát trước ngọt sau ấm lòng nhân nghĩa dẫu là quen hay lạ.
Bát chè xanh xứ Nghệ là chất adrenaline của người Nghệ lúc uống vào nói càng to, hành động càng gàn, càng quân tử như vị chát nơi đầu môi và ngọt thơm vào cuối họng.
Nói đến chè xanh nức tiếng, phải kể đến chè gay mạn Anh Sơn. Chẳng hiểu vì chất đất hay do bàn tay con người nên ai đi qua dốc Cao Sơn trên con đường quốc lộ 7 ngoằn ngoèo cũng phải dừng chân mua dăm bảy bó chè về làm quà dưới xuôi.
Còn chè ở mạn Nghĩa Đàn, Quỳ Hợp, sẵn đá trắng đúc thành cối người ta chế ra món chè đâm, uống một lần cũng chả bao giờ quên được. Mùi chè sông sống ngai ngái, nước xanh ngắt như lá chè, vị chát vừa phải nhưng lại làm người ta nghiện y như nghiện cô gái Thái trắng miền sơn cước Phủ Quỳ làm chè đâm từ nước suối chảy ra từ các "nậm" trong vắt ngọt lành để người thưởng thức luôn say tình say nghĩa vùng đất trù phú thiên nhiên ban tặng cho con người bao sản vật giá trị nơi đây.
Chè đồi thường là để người ta hái lấy ngọn để sao lên làm chè trà, chè đen. Còn chè xanh phục vụ cho đồng bào ngồi quây quần buổi sáng sớm, khi nông nhàn, hay lúc hậu tửu phải là thứ chè cả cành (cồi chè). Nấu cả cồi thì nước chát lâu, màu lại đẹp đậm đà, còn chè om cũng phải tuỳ tay, y như muối dưa cà, người om chè xanh chín vừa để nước sau còn ngon, lại phảng phất mùi thơm của nắng giãi mưa dầm trong bát nước đậm đà hương quê.
Mùi quê, mùi chè
Thuở nhỏ làm chè để nấu là nỗi kinh hoàng vì sợ những con nải chè màu xanh nằm sau mặt lá. Nó mà chạm đến tay thì vừa đau vừa ngứa, vôi bôi mấy cũng phải xuýt xoa cảm giác khó chịu rờn rợn đến bây giờ. Ấy vậy mà hôm nào cũng phải làm, phải rửa thật sạch rồi nấu bằng nước giếng thùng trong vắt để được coi là một tay làm chè.
Giờ đây chè đã được làm sạch ở chợ, lại được om chè bằng thứ nước máy, mặc dù kinh nghiệm có thừa, cũng chả thấy ngon bằng được như xưa. Nước chè giờ người ta uống trong cốc thuỷ tinh cho dễ rửa, nó nhạt mùi nước, mùi quê hay mùi chè so với ngày xưa, chỉ còn ẩn hiện khi thật tĩnh tâm và thật lòng chiêm nghiệm nước non ngàn năm những lần cạn bát vào dạ.
Xin đừng gọi chè xanh quê tôi như thứ "lục biểu trà" sang trọng. Thứ chè xanh là tuổi thơ, là những trận say nước chè cồn cào bụng dạ, là tình làng nghĩa xóm, là chuyện xưa chuyện nay của bao người sinh ra từ phố hay làng mà hết thảy đều nghiện loại thức uống bình dị, chát đậm thơm nồng mùi Nghệ đặc trưng.
Chiều nay mưa nặng hạt, nghe tiếng người rao chè xanh để bán hết còn về. Nước mưa rơi trĩu hồn chè xanh thoang thoảng quê nhà...
Xem thêm: Cách om chè xanh đúng chuẩn người Nghệ Tĩnh
Tác giả: NGUYỄN THU THỦY
Ý kiến bạn đọc
Đăng ký thành viên
Bài viết xem nhiều
-
Sức thuốc hay xức thuốc đúng? Phân biệt sức hay xức
-
Giòn giã hay ròn rã hay dòn dã viết đúng chính tả tiếng Việt?
-
Viết tỷ hay tỉ đồng đúng? Khi nào viết tỉ hay tỷ?
-
Chọn vẹn hay trọn vẹn đúng chính tả? Phân biệt trọn & chọn
-
Chịu nổi hay chịu nỗi? Chịu không nổi hay chịu không nỗi?
-
Phân biệt dồ hay rồ, bị dồ hay bị rồ, phát rồ hay phát dồ?
-
Rứa thâu là gì trong tiếng Nghệ? Ví dụ về từ rứa thâu
-
Làm lốt hay nốt, xin lốt hay nốt đúng chính tả?
-
Viết cái hủ hay cái hũ đúng? Phân biệt hủ hay hũ chi tiết
-
Không nỗi hay không nổi viết đúng? Mẹo phân biệt nỗi hay nổi
-
Méc hay mét khác nhau thế nào? Méc mẹ hay mét mẹ?